Chiến tranh và bất ổn nội Cao_Ly

Cuộc xâm lăng của Khiết ĐanNữ Chân

Từ năm 993 đến năm 1019, Cao Ly và Khiết Đan xung đột liên tục ở vùng biên giới.

Năm 993, khoảng 6 vạn quân Khiết Đan đã tấn công xâm lược khu vực biên giới Tây Bắc của Cao Ly. Tuy nhiên, sau cuộc thương thuyết của sứ thần Cao Ly là Từ Hy (Sŏ Hŭi, 서희, 徐熙), người Khiết Đan chấp nhận rút quân và nhường vùng lãnh thổ phía đông sông Áp Lục cho Cao Ly, đổi lại Cao Ly phải đồng ý từ bỏ liên minh với nhà Tống. Tuy nhiên, Cao Ly không hoàn toàn tuân thủ hòa ước, họ vẫn tiếp tục bang giao với nhà Tống, củng cố vị thế của mình bằng cách xây dựng thành trì tại các vùng lãnh thổ mới giành được ở biên giới phía bắc.

Trong lúc đó, năm 1009, tướng Khang Triệu (Kang Cho, 강조, 康兆) của Cao Ly đã thực hiện một cuộc binh biến chống lại vua Mục Tông (Mokchong, 목종, 穆宗), giết chết nhà vua và áp đặt quân luật lên triều đình. Nhân lúc nội bộ Cao Ly đang tranh giành quyền lực, 40 vạn quân Khiết Đan lần nữa mở cuộc tấn công xâm lược Cao Ly. Khang Triệu đã thống lĩnh quân đội Cao Ly chặn đứng quân xâm lược Khiết Đan cho đến khi ông bị người Khiết Đan bắt được và xử tử. Vua Hiển Tông (Hyŏnjong, 현종, 顯宗) buộc phải bỏ kinh thành tạm thời chạy về La Châu (Naju, 나주 hay 라주, 羅州). Nhận thấy không thể thiết lập được chỗ đứng trên lãnh thổ Cao Ly và lo sợ bị phản công, quân Khiết Đan buộc phải rút lui.

Năm 1018, người Khiết Đan lần thứ ba xâm lược Cao Ly với 10 vạn quân. Tại sông Hưng Hải Tân (Hŭnghaejin, 흥해진, 興海津), tướng Khương Hàm Tán (Kang Hamch'an, 강함찬, 姜邯贊) hạ lệnh xây đập chặn dòng sông, khi quân Khiết Đan vượt sông đến giữa dòng thì ông ra lệnh phá đập để nước sông nhấn chìm phần lớn quân Khiết Đan. Thiệt hại khi qua sông khá lớn cộng thêm việc tướng Khương Hàm Tán tổng tấn công vào lực lượng còn lại của quân Khiết Đan dẫn đến kết quả chỉ còn trơ trọi vài nghìn quân Khiết Đan sống sót tháo chạy về nước sau thảm bại tại Quy Châu (Kwiju, 귀주, 龜州) một năm sau đó.

Trong khi đó, tộc người Nữ Chân ở phía Bắc - trước đây luôn thần phục và cống nạp cho Cao Ly - nay phát triển thành một thế lực mạnh và thống nhất dưới trướng của dòng họ Hoàn Nhan (Wanan, 完颜). Họ bắt đầu tổ chức nhiều cuộc tấn công vào biên giới Cao Ly - Nữ Chân và cuối cùng, tấn công xâm lược Cao Ly.

Năm 1107, tướng Doãn Quán (Yun Kwan, 윤관, 尹瓘) thống lĩnh một đạo quân khoảng 17 nghìn người mới thành lập mang tên Biệt Vũ Ban (Pyǒlmuban, 별무반, 別武班) tấn công người Nữ Chân. Cuộc chiến đã kéo dài trong nhiều năm và kết quả cuối cùng người Nữ Chân bị đánh bại và đầu hàng Doãn Quán. Để đánh dấu chiến thắng này, Doãn Quán cho xây dựng chín pháo đài ở phía đông bắc biên giới Cao Ly - Nữ Chân được gọi là Đông Bắc Cửu Thành (Tongbuk Kusŏng, 동북9성, 東北九城). Tuy nhiên, năm 1108, tân vương của Cao Ly, vua Duệ Tông (Yejong, 예종, 睿宗) ra lệnh cho Doãn Quán rút quân. Vì sự ngấm ngầm hãm hại và dèm pha của phe đối lập trong triều, ông bị bãi chức. Song song đó, phe đối lập còn đấu tranh đòi trả lại chín thành mới trên đất mà Doãn Quán vừa đoạt được cho người Nữ Chân.

Tranh giành quyền lực

Từ đời vua Văn Tông đến đời vua thứ 17, vua Nhân Tông, đều tấn cung hậu, phi từ dòng họ Lý ở Nhân Châu (Inju Yissi, 인주 이씨, 仁州李氏). Vì vậy, cuối cùng dòng họ Lý đã thâu tóm quyền hành trong tay, lấn át cả nhà vua. Hậu quả của việc này là cuộc binh biến của Lý Tư Khiêm (Yi Chagyŏm, 이자겸, 李資謙) vào năm 1126. Tuy cuộc binh biến thất bại nhưng quyền hành của nhà vua cũng trở nên suy yếu sau đó. Triều đình Cao Ly ngày càng sa vào các cuộc tranh chấp, bè đảng giữa các quan lại, quý tộc.

Năm 1135, nhà sư Diệu Thanh (Myo Ch'ŏng, 묘청, 妙淸) thuyết phục nhà vua dời kinh đô về Tây Kinh (Sŏgyŏng, 서경, 西京 - tức Bình Nhưỡng ngày nay). Đề xuất này đã phân hóa triều đình Cao Ly thành hai phe đối nghịch nhau: phe ủng hộ dời đô về Tây Kinh và bành trướng thế lực sang Mãn Châu do Diệu Thanh cầm đầu; phe phản đối do Kim Phú Thức (Kim Pusik, 김부식, 金富軾) (tác giả của Tam quốc sử ký) cầm đầu, muốn giữ nguyên như hiện tại. Diệu Thanh đã thất bại trong việc thuyết phục nhà vua dời đô nên bỏ lên Tây Kinh và nổi loạn chống lại triều đình trung ương, thành lập nước Đại Phương (Taebang, 대방, 大方). Vương quốc này tồn tại không lâu và người lãnh đạo nó - Diệu Thanh - cũng bị giết sau đó.

Năm 1170, một nhóm võ quan được lãnh đạo bởi Trịnh Trọng Phu (Chŏng Chungbu, 정중부, 鄭仲夫), Lý Nghĩa Phương (Yi Ŭibang, 이의방, 李義方) và Lý Cao (Yi Ko, 이고, 李高) thực hiện một cuộc binh biến, phế vua Nghị Tông (Ŭijong, 의종, 毅宗) và đưa vua Minh Tông (Myŏngjong, 명종, 明宗) lên ngôi. Quyền lực thật sự nằm trong tay các võ quan - những kẻ kế tiếp nhau thống lĩnh lực lượng cấm quân Đô Phòng (Tobang, 도방, 都房) nhằm khống chế nhà vua, bắt đầu thời kỳ các võ quan thao túng chính quyền. Năm 1179, viên tướng trẻ Khánh Đại Thăng (Kyŏng Taesŭng, 경대승, 慶大升) nắm quyền và ông bắt đầu những nỗ lực khôi phục lại toàn quyền cho nhà vua cũng như thanh lọc nạn tham nhũng trong triều.

Tuy nhiên, không bao lâu sau ông qua đời vào năm 1183 và người thay ông là tướng Lý Nghĩa Mẫn (Yi Ŭi-min, 이의민, 李義旼). Vào năm 1197, một số võ quan có tư tưởng bảo thủ do tướng Thôi Trung Hiến (Ch'oe Ch'unghŏn,최충헌, 崔忠獻) cầm đầu đã ám sát Lý Nghĩa Mẫn cùng ba người con của ông, giành quyền lực về tay Thôi Trung Hiến. Liên tục trong suốt 61 năm, gia tộc họ Thôi hoàn toàn lũng đoạn chính trường Cao Ly, biến các vua Cao Ly trở thành những ông vua bù nhìn. "Triều đại" của họ Thôi bắt đầu từ Thôi Trung Hiến; sau đó là con trai của ông, Thôi Vũ (Ch'oe U, 최우, 崔瑀); cháu trai Thôi Hàng (Ch'oe Hang, 최항, 崔沆) và chắt Thôi Nghị (Ch'oe Ŭi, 최의, 崔竩). Để thâu tóm quyền lực, Thôi Trung Hiến phế bỏ vua Minh Tông và lập vua Thần Tông (Sinjong, 신종, 神宗). Tuy nhiên, sau khi vua Thần Tông qua đời, Thôi lại tiếp tục phế lập hai vị vua nữa (vua Hy Tông - Hŭijong, 희종, 熙宗 và vua Khang Tông - Kangjong, 강종, 康宗) cho đến khi ông lập được Cao Tông (Kojong, 고종, 高宗) là một ông vua dễ bảo.

Kháng chiến chống Mông Cổ

Năm 1231, Đại Hãn Oa Khoát Đài của Mông Cổ xua quân xâm lược Cao Ly, đây là một phần trong kế hoạch bình định khu vực Đông Bắc Trung Quốc. Triều đình Cao Ly buộc phải chạy ra đảo Giang Hoa nằm trong vịnh Kinh Kỳ (Kyŏnggi, 경기, 京畿) vào năm 1232. Thừa tướng Thôi Vũ, thống lĩnh quân đội Cao Ly, đã kiên cường tổ chức kháng chiến chống quân xâm lược. Triều đình Cao Ly đã kháng chiến trong gần 30 năm nhưng cuối cùng phải xin nghị hòa vào năm 1259.

Trong khi đó, từ năm 1231 đến 1259 người Mông Cổ nhiều lần mở chiến dịch tấn công và tàn phá nhiều khu vực thuộc các đạo Khánh Thượng (Kyŏngsang, 경상, 慶尙) và Toàn La (Chŏlla, 전라, 全羅). Có 6 đợt đợt tấn công chính diễn ra vào các năm 1231, 1232, 1235, 1238, 1247, 1253; từ năm 1253 đến 1258 quân Mông Cổ dưới sự chỉ huy của Jalairtai (Xa La Thái - 车罗大 hoặc Trác Khắc Nhi Đái - 札克儿带) đã mở bốn đợt tấn công liên tiếp có tính chất hủy diệt nhằm vào Cao Ly trong chiến dịch quân sự giành chiến thắng chung cuộc cho người Mông Cổ đối với Cao Ly. Chiến dịch này đã gây ra sự tàn phá, đau thương và chết chóc kinh hoàng cho thường dân trên khắp bán đảo Triều Tiên, để rồi cuối cùng triều đình Cao Ly phải chấp nhận đầu hàng vào năm 1259.

Nhân dân Cao Ly đã kháng cự rất dũng cảm và kiên cường, bản thân triều đình Cao Ly đóng ở Giang Hoa cũng nỗ lực củng cố thành lũy. Trên chiến trường, quân Cao Ly cũng đã giành được nhiều chiến thắng nhưng họ không đủ sức chống đỡ nhiều cuộc xâm lăng ồ ạt của kẻ thù quá mạnh. Năm 1236, vua Cao Tông ban lệnh biên soạn lại bộ Bát vạn đại tạng kinh - vốn đã bị phá hủy khi quân Mông Cổ xâm lược vào năm 1232. Bộ kinh Phật này phải mất 15 năm mới hoàn thành bản khắc trên 81 nghìn tấm gỗ và vẫn còn được bảo tồn đến ngày nay. Tháng 3 năm 1258, Tể Tướng Thôi Nghị bị Kim Tuấn (Kim Chun, 김준, 金俊) ám sát. Chế độ độc tài quân sự của dòng họ Thôi chấm dứt và nhóm quan văn chủ hòa với Mông Cổ nắm lấy quyền lực. Kết quả, nhóm quan văn cử sứ giả đến cầu hòa với quân Mông Cổ và một hòa ước được ký kết giữa đế quốc Mông Cổ và Cao Ly thừa nhận sự thống trị của người Mông Cổ đối với Cao Ly. Tuy nhiên, một số quan võ không chịu đầu hàng, họ khởi binh chống lại triều đình và lập căn cứ kháng chiến trên các hòn đảo ven biển phía Nam của bán đảo Triều Tiên, sự kiện này được gọi là Cuộc khởi nghĩa Tam Biệt Sao (1270-1273) (Sambyŏlch'o, 삼별초, 三別抄).[1]

Hòa ước với Mông Cổ vẫn cho phép Cao Ly giữ chủ quyền và văn hóa truyền thống của mình - ngụ ý Cao Ly không phải chịu một sự đô hộ trực tiếp của người Mông Cổ.[2] Tuy nhiên, sau cuộc xâm lăng, Mông Cổ đã sáp nhập các tỉnh phía Bắc Cao Ly vào lãnh thổ đế quốc và lập thành hai huyện. Ký xong hòa ước với Cao Ly, người Mông Cổ - sau này là nhà Nguyên ở Trung Quốc - dự định liên minh quân sự với Cao Ly để chinh phục Nhật Bản, dùng Cao Ly làm bàn đạp và làm nguồn hỗ trợ tài lực cho cuộc chiến. Năm 1274 và 1281, quân Nguyên vượt biển xâm lăng Nhật Bản nhưng tất cả đều thất bại do những trận bão biển thần phong Kamikaze-神風 dữ dội cũng như sức kháng cự mãnh liệt của quân Nhật, đã gây nhiều thiệt hại nặng nề cho quân Nguyên.

Bắt đầu từ triều vua Nguyên Tông (1260-1274) (Wŏnjong, 원종, 元宗), Cao Ly trở thành một thuộc quốc của nhà Nguyên. Dưới triều Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt (1260-1294), Cao Ly đã sai sứ cống nạp cho nhà Nguyên tổng cộng 36 lần.[3] Nhà Cao Ly phải chịu sự khống chế của nhà Nguyên trong gần một thế kỷ, mãi đến khi Cung Mẫn Vương (Kongmin wang, 공민왕, 恭愍王) lên nắm quyền vào năm 1350 và bắt đầu bài trừ những ảnh hưởng của nhà Nguyên. Kể từ thập niên 1350, Cao Ly đã giành lại được độc lập cho mình.

Nỗ lực cải cách cuối cùng

Lãnh thổ Cao Ly năm 1374

Lúc Cung Mẫn Vương lên ngôi, Cao Ly vẫn còn chịu ách thống trị của Nhà Nguyên. Chính vì vậy cũng giống như các vua khác của Cao Ly trong thời kỳ này, trước khi lên ngôi Cung Mẫn Vương phải sống ở Trung Quốc từ năm 1341 đến 1351 như một con tin và sau khi lên ngôi ông không được phép đặt miếu hiệu. Ông cũng buộc phải kết hôn với một công chúa Mông Cổ, tức Vương hậu Lỗ Quốc sau này (Noguk Taejang Kongju", 노국대장공주, 魯國大長公主, Lỗ Quốc Đại Trường Công chúa). Tuy nhiên vào khoảng giữa thế kỷ 14, nhà Nguyên bắt đầu đi vào con đường suy vong và bị nhà Minh đánh đuổi khỏi Trung Nguyên vào năm 1368. Cung Mẫn Vương đã nhân cơ hội để cải tổ lại triều đình và thanh trừ mọi ảnh hưởng của nhà Nguyên lên Cao Ly.

Hành động đầu tiên ông là cho bãi chức tất cả những quần thần văn võ trong triều có tư tưởng thân nhà Nguyên. Sau đó Cung Mẫn Vương hướng đến các vùng lãnh thổ của Cao Ly ở phía Bắc, nơi mà quân Nguyên đã chiếm đóng và biến thành hai phủ của đế quốc Nguyên: Song Thành (Ssangsŏng Ch'onggwanbu, 쌍성총관부, 雙城摠管府, Song Thành Tổng quản phủ) và Đông Ninh (Tongnyŏngbu, 동녕부, 東寧府, Đông Ninh phủ) - tương ứng với vị trí của hai tỉnh Bắc HamgyongBắc Pyongan ngày nay. Quân Cao Ly nhanh chóng tái chiếm hai phủ này nhờ vào sự quy hàng của Lý Tử Xuân (Yi Cha-ch'un, 이자춘, 李子春) - một viên tiểu tướng người Cao Ly phục vụ trong hàng ngũ quân Nguyên tại Song Thành - và con trai ông ta Lý Thành Quế (Yi Sŏnggye, 이성계, 李成桂). Tiếp theo đó, tướng Lý Tử Xuân cùng với tướng Trì Long Thụ (Chi Yongsu, 지용수, 篪龍樹) chỉ huy một đợt tấn công vào Liêu Dương. Năm 1365, Vương hậu Lỗ Quốc qua đời trong khi sinh nở khiến Cung Mẫn Vương suy sụp, ông không màng gì đến chính sự và giao phó hoàn toàn việc nước cho nhà sư Tân Đôn (Sin Ton, 신돈, 辛旽). Tuy nhiên chỉ sau sáu năm, Tân Đôn bị mất chức. Cuối cùng vào năm 1374, Cung Mẫn Vương bị một người tình nam của mình giết chết. Cái chết của Cung Mẫn Vương đã làm tiêu tan mọi mơ ước của ông và đẩy Cao Ly vào con đường sụp đổ.